Nhiều người cho rằng việc truy cập Internet nên được coi là quyền cơ bản của con người. Cụ thể, đó là việc mọi người đều có quyền sử dụng các máy tính có kết nối với Internet để truy cập các thông tin và tiếp cận các cơ hội một cách bình đẳng.
Tuy nhiên, khả năng tiếp cận Internet và các thiết bị điện toán trên toàn thế giới lại không đồng đều. Có người chưa được tiếp cận bất kỳ thiết bị máy tính nào, trong khi một số người đã sở hữu máy tính với Internet tốc độ cao ngay tại nhà. Số còn lại thì thường nằm ở khoảng giữa, là những người có tiếp xúc một chút hoặc sử dụng các thiết bị máy tính không thường xuyên. Sự khác biệt về quyền truy cập này được gọi là khoảng cách số và thường do các yếu tố kinh tế xã hội, địa lý hoặc nhân khẩu học gây nên.
Các số liệu thống kê
Ta cùng bắt đầu tìm hiểu về khoảng cách số toàn cầu thông qua sự khác biệt giữa các quốc gia trên thế giới.
Hình ảnh động dưới đây mô tả việc sử dụng địa chỉ IP trên thế giới vào năm 2013. Từ hình ảnh này, ta có thể thấy sự khác biệt về mức độ truy cập Internet trên toàn cầu:
Nhưng để thực sự hiểu về khoảng cách số toàn cầu, chúng ta cần đi sâu hơn vào các chỉ số.
Hình ảnh trực quan dưới đây cho biết tỷ lệ người sử dụng Internet ở mỗi quốc gia vào năm 2016:
Ở Na Uy, 96% dân số sử dụng Internet. Nhưng ở Somalia, tỷ lệ này chỉ chiếm 2%.
Bản đồ tiếp theo biểu diễn tốc độ kết nối Internet trung bình ở mỗi quốc gia vào năm 2019:
Theo bản đồ trên, trung bình sẽ mất 30 giờ, 1 phút và 40 giây để tải xuống một bộ phim có dung lượng là 5 GB ở Yemen. Trong khi ở Đài Loan, ta chỉ mất 8 phút để tải xong bộ phim đó.
🤔Tốc độ kết nối Internet của bạn có nhanh không? Kết nối Internet nhanh hoặc chậm hơn sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của bạn như thế nào?
Đối với mọi quốc ra, việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho mạng Internet tốc độ cao cần có sự đầu tư về mặt kinh tế đến từ phía chính phủ hoặc các công ty cung cấp dịch vụ Internet. Vậy tại sao có những quốc gia quyết định đầu tư được cho Internet tốc độ cao còn các quốc gia khác thì không?
Lý do chính vẫn đến từ tình hình kinh tế của mỗi quốc gia. Không phải quốc gia nào cũng có ngân sách để xây dựng cơ sở hạ tầng Internet. Nhưng bên cạnh đó cũng có những yếu tố khác ảnh hưởng đến việc này.
Yếu tố địa lý
Để thiết lập và triển khai mạng Internet, mỗi nước cần xây dựng được cơ sở hạ tầng vật lý, với các dây cáp kết nối giữa các toà nhà và các khu vực khác nhau.
Tuy nhiên, có nhiều yếu tố địa lý khiến việc phủ sóng Internet trong một quốc gia trở nên khó khăn hơn:
Diện tích rộng lớn: Đài Loan có tốc độ Internet trung bình cao nhất thế giới nhưng cũng là một trong những quốc gia có diện tích nhỏ nhất. Brazil có tốc độ Internet trung bình thấp nhưng lại có diện tích lớn hơn Đài Loan gấp 237 lần, đồng nghĩa với việc Brazil cần xây dựng nhiều cơ sở hạ tầng vật chất hơn để phủ sóng quốc gia.
Quốc đảo: Tonga là một quốc gia gồm 76 hòn đảo ở Thái Bình Dương. Trước đây, Internet ở Tonga rất chậm và phải đến năm 2013, khi tuyến cáp quang dài 514 dặm được lắp đặt, thì tốc độ Internet tại đây mới được cải thiện. Khi cáp quang này vô tình bị tàu làm hư hại, quần đảo đã bị mất Internet trong 12 ngày. Nhìn chung, các quốc đảo nhỏ thường có kết nối Internet hạn chế hơn so với các quốc gia lớn không giáp biển.
Địa hình khó khăn: Tại Nepal, người dân có thể dễ dàng truy cập Internet tốc độ cao ở thủ đô Kathmandu. Tuy nhiên, việc đưa cơ sở hạ tầng đến các vùng cao của Nepal lại rất khó khăn. Do đó, tốc độ Internet trung bình của cả nước vẫn khá chậm.
🤔Các nước phát triển có thể giúp các nước khác cải thiện cơ sở hạ tầng Internet bằng những cách nào? Làm thế nào để một quốc gia được hưởng lợi từ khả năng sử dụng Internet của một quốc gia khác?
Lệnh hạn chế từ chính phủ
Internet là một phương tiện mạnh mẽ để liên lạc và thể hiện quyền tự do ngôn luận, là nơi người dùng được trao quyền để giao tiếp với những người khác trên toàn cầu và bày tỏ ý kiến của mình. Tuy nhiên, do lo ngại sự tự do ngôn luận sẽ làm phát sinh những vấn đề an ninh quốc gia, một số chính phủ có thể sẽ hạn chế quyền truy cập Internet.
Hố đen Internet (Internet black hole)
Triều Tiên là quốc gia gần như tách biệt hoàn toàn khỏi mạng Internet toàn cầu trong suốt thời gian đất nước này tồn tại. Năm 2015, Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry nhận xét rằng Triều Tiên “có tỷ lệ tiếp cận thấp nhất thế giới, cũng như có sự kiểm soát tập trung và cứng nhắc nhất”.
Chỉ có một nhà cung cấp dịch vụ Internet ở Triều Tiên và nhà cung cấp đó là đơn vị liên doanh giữa chính phủ Triều Tiên và một công ty Thái Lan. Ngoài ra, chỉ có 1024 địa chỉ IP được phân bổ cho nhà cung cấp đó nhằm hạn chế số lượng kết nối có thể có giữa Triều Tiên và phần còn lại của Internet. Bên cạnh đó, việc truy cập Internet tại Triều Tiên được cho là bị hạn chế đối với các quan chức chính phủ và người nước ngoài.
Tính đến năm 2016, chỉ có 28 trang web có thể truy cập công khai được lưu trữ trên địa chỉ IP của Triều Tiên, đây là một con số rất nhỏ so với hơn một triệu trang web tại nước láng giềng Hàn Quốc.
Theo các nguồn tin từ trong Triều Tiên, quốc gia này có một
toàn quốc tên là Kwangmyong giúp cung cấp quyền truy cập vào vài nghìn trang web. Có rất ít máy tính được sử dụng ở bên ngoài thủ đô Bình Nhưỡng và hầu hết các máy tính được đặt trong các tòa nhà do chính phủ quản lý, do đó, ước tính chỉ có 10% dân số được sử dụng Kwangmyong.
Do sự bí mật của quốc gia này nên chúng ta cũng không có thông tin về việc bao nhiêu người Triều Tiên biết đến sự tồn tại của Internet toàn cầu và liệu họ có biết được mạng Internet lớn hơn mạng nội bộ của quốc gia họ rất nhiều hay không.
Ngắt kết nối Internet
Ở một vài quốc gia khác, chính phủ lại áp đặt các lệnh ngắt kết nối Internet, đặc biệt là trong thời kỳ quốc gia đó có sự bất ổn an ninh chính trị.
Vào tháng 11 năm 2019, Iran đã ngắt quyền truy cập Internet sau hàng loạt cuộc biểu tình phản đối về giá nhiên liệu tăng cao. Trong khoảng thời gian đó, NetBlocks.org đã theo dõi kết nối Internet ở Iran và nhận thấy rằng khả năng truy cập Internet tại đây chỉ dao động quanh mức 5% trong 5 ngày.
NetBlocks.org nhận định rằng sự kiện ngắt kết nối Internet tại Iran, “khi xét về mức độ phức tạp kỹ thuật và phạm vi ảnh hưởng rộng khắp của nó, là sự mất kết nối nghiêm trọng nhất mà NetBlocks theo dõi được ở các quốc gia”.
Iran là một quốc gia rộng lớn có nhiều nhà cung cấp dịch vụ Internet. Đồng thời, các giao thức Internet tại đây cũng được thiết kế để có khả năng chịu lỗi. Do đó, việc ngắt hoàn toàn kết nối Internet ở quốc gia này không hề đơn giản. Khi quan sát biểu đồ trên, ta có thể thấy sự sụt giảm ban đầu trong khả năng truy cập Internet ở quốc gia này thể hiện những nỗ lực đầu tiên của các nhà cung cấp dịch vụ Internet tại Iran nhằm khống chế khả năng phục hồi và chịu lỗi trong chính hệ thống của họ.
Thiết bị ngắt kết nối toàn bộ Internet
Do lo ngại về sự khó khăn trong việc ngắt kết nối Internet trên diện rộng, một số quốc gia đang cố gắng tạo ra cơ chế ngắt kết nối hoàn toàn cho mọi điểm truy cập Internet trên toàn bộ đất nước.
Gần đây, Nga đã có những bước tiến mới trong việc thiết lập cơ chế ngắt kết nối Internet trên quy mô toàn quốc gia, với bộ luật năm 2019 cho phép chính phủ chặn quyền truy cập Internet “trong trường hợp khẩn cấp”.
Về mặt kỹ thuật, để có thể thực hiện việc ngắt kết nối Internet trên toàn quốc gia, bộ luật yêu cầu tất cả các nhà cung cấp dịch vụ Internet phải định tuyến lưu lượng truy cập để đi qua những điểm do chính phủ kiểm soát. Đồng thời, các nhà cung cấp này cũng cần cài đặt phần mềm để giám sát và lọc lưu lượng bằng công nghệ “phân tích sâu các gói tin”. Nga cũng có kế hoạch xây dựng hệ thống DNS của riêng mình để không phải phụ thuộc vào các máy chủ DNS được lưu trữ ở nước ngoài trong việc phân giải tên miền.
Nếu chính phủ Nga thành công, họ có thể ngắt quyền truy cập của công dân vào mạng Internet toàn cầu, trong khi vẫn duy trì quyền truy cập của họ vào các trang web đặt máy chủ tại Nga. Chủ tịch Ủy ban Đu-ma Nga về Chính sách thông tin Leonid Levin phát biểu:
“Mục tiêu chính của bộ luật là tạo ra một mạng Internet đáng tin cậy có thể hoạt động được trong cả những trường hợp chịu tác động bên ngoài, chẳng hạn như một cuộc tấn công quy mô lớn của hacker”.
Tuy nhiên, không phải tất cả công dân Nga đều đồng ý với điều này. Khi dự luật trên được công bố lần đầu tiên vào tháng 3 ở Nga, một loạt các cuộc biểu tình đã nổ ra. Nhà hoạt động Sergei Boiko đã bày tỏ quan điểm rằng:
“Chính phủ đang đi ngược lại quyền tự do của con người, bao gồm cả quyền tự do trên Internet”.
Khoảng cách số do yếu tố địa lý
Khi nói đến khoảng cách số, ta thường liên hệ tới thuật ngữ khoảng cách số toàn cầu, tức là sự khác biệt rõ rệt về khả năng tiếp cận các thiết bị máy tính và tốc độ kết nối Internet giữa các quốc gia trên thế giới.
Nhưng trong mỗi quốc gia, ngay cả những quốc gia có khả năng kết nối Internet tương đối tốt, thì cơ sở hạ tầng Internet vẫn chưa được phân bổ đồng đều.
Ủy ban Truyền thông Liên bang Hoa Kỳ (FCC) đã sử dụng biểu đồ dưới đây để biểu diễn các nhà cung cấp băng thông rộng trên nước Mỹ, với tốc độ tải xuống ≥ 100
trong năm 2018:
Vậy tại sao ngay trong một quốc gia, tốc độ kết nối Internet lại khác nhau đến vậy? Ta hãy cùng tìm hiểu trong bài học này.
Khả năng kết nối Internet không đồng đều ở thành thị và nông thôn
Bảng thống kê sau thể hiện số lượng người không được tiếp cận kết nối Internet băng thông rộng 25 Mb/giây ở các khu vực khác nhau của Hoa Kỳ trong năm 2014:
Vùng | Số người không được tiếp cận | Tỷ lệ phần trăm | |
---|---|---|---|
Các tiểu bang | 33,98 triệu | 10% | |
– Khu vực nông thôn | 23,43 triệu | 39% | |
– Khu vực thành thị | 10,55 triệu | 4% | |
Khu tự trị của người da đỏ | 1,57 triệu | 41% | |
– Khu vực nông thôn | 1,29 triệu | 68% | |
– Khu vực thành thị | 0,28 triệu | 14% | |
Lãnh thổ hải ngoại của Mỹ | 2,63 triệu | 66% | |
– Khu vực nông thôn | 1,08 triệu | 98% | |
– Khu vực thành thị | 1,55 triệu | 54% |
Nguồn: Báo cáo tình hình kết nối Internet băng thông rộng của Ủy ban Truyền thông Liên bang Hoa Kỳ (FCC) năm 2016
Từ bảng trên, ta có thể thấy tất cả các vùng đều có sự chênh lệch khá lớn giữa thành thị và nông thôn. Sự chênh lệch đó có thể đến từ những lý do sau đây:
- Khu vực nông thôn thường có địa hình khúc khuỷu, gây ra khó khăn trong việc xây dựng các công trình đô thị liền kề. Địa hình này cũng khiến việc đặt dây cáp trở nên khó khăn.
- Ở Hoa Kỳ, các nhà cung cấp dịch vụ Internet thường là các công ty hoạt động vì lợi nhuận nên họ thường tập trung hơn ở các khu vực thành thị để tránh việc lặp đặt nhiều dây cáp mà vẫn có nhiều khách hàng hơn.
- Do việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho mạng Internet ở thành thị mất ít chi phí hơn nên các nhà cung cấp dịch vụ Internet có thể tính phí ít hơn cho khách hàng ở thành thị. Do đó, khách hàng ở khu vực thành thị có thể chỉ phải trả 40 đô la hàng tháng trong khi khách hàng ở khu vực nông thôn phải trả đến 100 đô la cho cùng một tốc độ kết nối Internet.
Vậy để khắc phục những vấn đề này, các quốc gia đã áp dụng những biện pháp như thế nào?
Tại Hoa Kỳ, chương trình “Connect America” của Ủy ban Truyền thông Liên bang đã phân bổ nguồn vốn trị giá 1,488 tỷ USD để mở rộng khả năng truy cập băng thông rộng ở các vùng nông thôn. Từ nguồn vốn này, các nhà cung cấp dịch vụ Internet sẽ xây dựng cơ sở hạ tầng giúp người dân truy cập Internet tốt hơn ở các vùng nông thôn và khu tự trị của người da đỏ.
Ở Vương quốc Anh, người dân ở nông thôn đã tự tạo ra một doanh nghiệp xã hội có tên là Băng thông rộng cho Nông thôn miền Bắc (Broadband for the Rural North – B4RN). Doanh nghiệp này kêu gọi người dân của các cộng đồng nông thôn mua cổ phần của B4RN và sử dụng vốn từ các nguồn quỹ đó để tự lắp đặt cơ sở hạ tầng tại địa phương.
Khả năng kết nối Internet không đồng đều ở các trường học
Hiện nay, nhiều giáo viên đang ứng dụng các công cụ học tập kỹ thuật số cho lớp học. Để có thể tận dụng tối đa các tài nguyên trực tuyến, chẳng hạn như Khan Academy, các trường học sẽ cần lắp đặt cơ sở hạ tầng Internet hiện đại.
Với Khan Academy, để có trải nghiệm thuận lợi khi làm các bài luyện tập trên nền tảng, người dùng được khuyến nghị sử dụng mạng có băng thông tối thiểu là 150
. Rất may là tính đến năm 2019, 99% các học khu ở Hoa Kỳ đã trang bị mạng Internet tối thiểu 100 kb/giây cho mỗi học sinh.
Tuy nhiên, để xem video trên Khan Academy, băng thông tối thiểu được đề xuất là 1,5
, trong khi vào năm 2019, chỉ có 38% học khu có lắp đặt mạng với tốc độ tối thiểu là 1 Mb/giây.
Để cải thiện tình trạng kết nối Internet tại các trường học, chương trình E-Rate của Ủy ban Truyền thông Liên bang Hoa Kỳ được triển khai, nhằm cung cấp kinh phí cho các trường học để thực hiện được các mục tiêu sau về chuẩn kết nối Internet:
- Có kết nối cáp quang tới mọi trường học.
- Có kết nối Wi-Fi cho mọi lớp học.
- Có tốc độ tải xuống 1 Mb/giây cho mỗi học sinh.
Tuy nhiều lớp học vẫn chưa đạt được tiêu chuẩn số 3 nhưng hiện nay, 99% trường học đã có cơ sở hạ tầng cơ bản để thiết lập được kết nối Internet. Đó là cơ sở tốt để đẩy mạnh việc tăng băng thông cho các trường học trong những năm tiếp theo.
Khoảng cách số do yếu tố kinh tế – xã hội
Hiện nay, nhiều khu vực trên thế giới đã có cơ sở hạ tầng cần thiết để lắp đặt Internet tốc độ cao.
Tuy nhiên, ngay cả trong một khu vực đã có kết nối Internet tốc độ cao, khoảng cách số vẫn tồn tại do không phải gia đình nào cũng có đầy đủ điều kiện về kinh tế – xã hội để tiếp cận Internet.
Bất bình đẳng thu nhập
Biểu đồ dưới đây so sánh khả năng tiếp cận công nghệ kỹ thuật số tại các gia đình thuộc các nhóm thu nhập khác nhau ở Hoa Kỳ:
Với nhóm thu nhập thấp nhất, ứng với các gia đình có thu nhập dưới 30.000 đô la một năm, gần 50% trong số các hộ gia đình này không có máy tính hoặc không được tiếp cận với Internet băng thông rộng tại nhà.
Những hộ gia đình không có máy tính tại nhà sẽ phải sử dụng điện thoại thông minh hoặc phòng máy tính công cộng khi họ muốn sử dụng các dịch vụ trực tuyến. Cụ thể, theo một nghiên cứu vào năm 2014, với nhóm những người có thu nhập thấp và có sở hữu điện thoại thông minh, 32% trong số họ phải nộp đơn xin việc trên điện thoại, trong khi tỉ lệ này chỉ là 7% với nhóm những người có sở hữu điện thoại thông minh nhưng có thu nhập cao.
Ảnh hưởng tới hoạt động học tập
Khoảng cách số cũng đang ảnh hưởng đến thế hệ lực lượng lao động tiếp theo, hay chính là các bạn học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường. Hiện nay, giáo viên đang ngày càng sử dụng nhiều công cụ kỹ thuật số hơn trong việc giao bài tập về nhà. Do đó, học sinh cũng sẽ phải thực hiện các bài tập này trên nền tảng kỹ thuật số.
Biểu đồ sau thể hiện mức độ hoàn thành bài tập về nhà của thanh thiếu niên tại Hoa Kỳ:
Tại các hộ gia đình có thu nhập thấp, học sinh có xu hướng làm bài tập về nhà trên điện thoại, sử dụng Wi-Fi công cộng hoặc không thể hoàn thành bài tập do thiếu máy tính hoặc kết nối Internet tốt. Số liệu thống kê cũng thể hiện xu hướng tương tự đối với các hộ gia đình người da màu hoặc có gốc từ các nước nói tiếng Tây Ban Nha.
Theo báo cáo của Wall Street Journal, chuỗi cửa hàng đồ ăn nhanh McDonald là nơi học sinh thường đến làm bài tập nhiều nhất do ở đây có Wi-Fi miễn phí, có nhiều chi nhánh tại nhiều địa điểm và giờ đóng cửa muộn.
Nỗ lực thu hẹp khoảng cách kinh tế xã hội
Hiện nay, nhiều chính phủ, tổ chức và doanh nghiệp đang thực hiện các sáng kiến nhằm thu hẹp khoảng cách số đối với các cá nhân có thu nhập thấp, đặc biệt là các em học sinh. Ta có thể điểm qua một số ví dụ tại Hoa Kỳ như sau:
Về phía chính phủ: Năm 2002, chính quyền bang Maine, Hoa Kỳ đã thực hiện chương trình cung cấp máy tính xách tay cho mỗi học sinh lớp 7 và lớp 8 tại các trường học ở Maine.
Về phía các tổ chức phi lợi nhuận: Dự án ConnectHomeUSA được triển khai nhằm cung cấp máy tính, kết nối Internet và đào tạo kiến thức số cho những người dân sống trong nhà ở trợ cấp. GiveInternet là một tổ chức phi lợi nhuận quốc tế, tập trung vào mảng gây quỹ để cung cấp máy tính xách tay, kết nối Internet và đào tạo kỹ năng số cho học sinh trung học có hoàn cảnh khó khăn.
Về phía các nhà cung cấp dịch vụ Internet: Các công ty hoạt động vì lợi nhuận cũng đang tham gia vào việc thu hẹp khoảng cách số. Chương trình “Internet Essentials” của Comcast (một công ty truyền thông và công nghệ tại Hoa Kỳ) đã cung cấp kết nối Internet giá rẻ cho các hộ gia đình thuộc diện có thu nhập thấp. Sprint (một công ty viễn thông tại Hoa Kỳ) đã thành lập quỹ dự án “1Million” nhằm cung cấp thiết bị máy tính và kết nối Internet không dây cho một triệu học sinh trung học.